Nông nghiệp, nông dân và nông thôn tỉnh Bắc Giang: Nhìn từ kết quả cuộc điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ 2020

|

Nông nghiệp, nông dân và nông thôn tỉnh Bắc Giang: Nhìn từ kết quả cuộc điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ 2020

Với trên 80% dân số sống ở khu vực nô;ng thô;n, do đó việc phát triển nô;ng nghiệp, nô;ng thô;n bền vững của tỉnh Bắc Giang vừa là mục tiêu, động lực, vừa là cô;ng c???, giải pháp hiệu quả nhất nhằm cải thiện nhanh hơn đời sống của nô;ng dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo vệ mô;i trường sinh thái và góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng.
 
Trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang có nhiều khởi sắc, tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức khá, các ngành, lĩnh vực được quan tâm đầu tư. Các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển nô;ng nghiệp, nô;ng thô;n đã phát huy hiệu quả, phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch phát triển nô;ng nghiệp, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nô;ng dân.
 
Kinh tế - xã hội phát triển, bộ mặt nô;ng thô;n mới Bắc Giang có nhiều đổi mới tích cực
 
Thực hiện Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã và Nghị quyết của Hội đồng Nhân dân tỉnh về việc sáp nhập thô;n, tổ dân phố, trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện có 1.802 thô;n, giảm 494 thô;n so với cách đây 5 năm. Trên địa bàn nô;ng thô;n toàn tỉnh có 397.746 hộ, tăng 1,7% so với 5 năm trước, với 1.507.647 nhân khẩu, bình quân 3,79 người/hộ.
 
Số xã, thô;n và số hộ, nhân khẩu nô;ng thô;n qua 2 kỳ điều tra 2016 và 2020
 
  Đơn
vị tính
Năm
2016
Năm
2020
2020 so với 2016 (%)
 Số xã 204 184 90,20
 Số thô;n Thô;n 2.296 1.802 78,48
 Số hộ Hộ 391.087 397.746 101,70
 Số nhân khẩu Người 1.446.715 1.507.647 104,21
 Số hộ nghèo trên địa bàn xã Hộ 49.791 13.074 26,26
 Số hộ cận nghèo trên địa bàn xã Hộ 35.682 16.358 45,84
 
Từ năm 2016, 100% số thô;n, xã đã có điện lưới quốc gia, qua đó đã làm thay đổi bộ mặt nô;ng thô;n, đảm bảo trật tự an ninh quốc phòng, tạo tiền đề phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của nô;ng dân nô;ng thô;n. Đồng thời cũng góp phần thay đổi cơ cấu cây trồng, thay đổi tập quán và quy mô; canh tác, chuyển dịch cơ cấu phát triển kinh tế và tăng thu nhập cho các hộ dân nô;ng thô;n.
 
Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nô;ng thô;n mới, trong đó cô;ng tác phát triển giao thô;ng nô;ng thô;n trên địa bàn tỉnh đạt kết quả khá toàn diện, góp phần tích cực tạo điều kiện thuận lợi để thu hút nhà đầu tư về khu vực nô;ng thô;n, tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo và giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế - xã hội khác. Đáng chú ý là hệ thống giao thô;ng đường trục xã được quan tâm phát triển, với 182/184 xã có đường trục xã được rải nhựa/ bê tô;ng hóa, đạt 98,91% số xã toàn tỉnh. Số xã có đường trục thô;n được rải nhựa/ bê tô;ng hóa là 183 xã, chiếm 99,46% tổng số xã... Với cơ sở hạ tầng giao thô;ng được đầu tư mở rộng cả về bề rộng và chiều sâu là điều kiện hết sức thuận lợi phục vụ sản xuất nô;ng nghiệp, dịch vụ và sinh hoạt của cư dân nô;ng thô;n, xây dựng nô;ng thô;n mới.
 
Tính đến 01/7/2020, trên địa bàn tỉnh đã có 100% số xã có trường Tiểu học và trường Trung học sơ sở. Số trường Trung học phổ thô;ng trên địa bàn nô;ng thô;n có 20 trường, trong đó 12 trường ở các xã miền núi, 5 trường ở các xã vùng cao trong tỉnh. Với hệ thống trường học được đảm bảo ở toàn bộ các xã, đã tạo điều kiện thuận lợi để học sinh khô;ng phải đi học xa, góp phần giảm tình trạng học sinh bỏ học, nhất là các xã ở vùng cao, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với việc đáp ứng về số lượng trường học thì kết quả xây dựng đảm bảo cơ sở vật chất cho cô;ng tác dạy và học được chú trọng, toàn bộ các trường học đều đã được xây dựng kiên cố, bán kiên cố từ năm 2016 góp phần thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 trên địa bàn tỉnh.
 
Những năm qua hệ thống y tế cơ sở, trong đó y tế xã đóng vai trò nò;ng c???t, đã góp phần quan trọng trong việc cải thiện các chỉ số sức khoẻ, tăng cường tiếp cận của người dân tới dịch vụ y tế chất lượng, giúp người dân tin tưởng và đến khám, chữa bệnh ban đầu tại hệ thống y tế cơ sở, giảm tải bệnh viện tuyến trên, đồng thời giảm chi phí y tế cho người dân. Hệ thống trạm y tế xã tiếp tục được đầu tư nâ;ng c???p toàn diện cả về số lượng, chất lượng, trình độ chuyên mô;n của đội ngũ y, bác sĩ cũng như cơ sở vật chất. 100% số xã có trạm y tế, tỷ lệ trạm y tế được xây dựng kiên cố hiện nay
 
đạt 78,80% (năm 2016 đạt 72,55%); bán kiên cố đạt 21,20% (năm 2016 đạt 27,45%). Số bác sĩ trên 1 vạn dân nô;ng thô;n đạt 1,70 bác sĩ/vạn dân (năm 2016 đạt 1,78), mức độ giảm này có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là do nhân khẩu khu vực nô;ng thô;n trong 5 năm qua tăng 4,21%.
 
Nhận thức được việc đảm bảo vệ sinh mô;i trường trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, những năm qua, chính quyền các cấp đã tăng cường cô;ng tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm về bảo vệ nguồn nước, bảo vệ mô;i trường đến mọi tầng lớp nhân dân, đồng thời đầu tư, xây dựng các cô;ng trình cấp nước và vệ sinh, bên cạnh đó cũng xử lý có hiệu quả các cơ sở gây ô; nhiễm mô;i trường, ô; nhiễm nguồn nước, đặc biệt tại các làng nghề, trang trại chăn nuô;i, khu cô;ng nghiệp... Nhờ vậy, mô;i trường ở khu vực nô;ng thô;n đã có nhiều tiến bộ so với các năm trước đây. Từ năm 2016 đến nay, toàn tỉnh vẫn duy trì 42 xã có hệ thống cấp nước sinh hoạt tập trung, góp phần quan trọng trong nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ sức khỏe của cư dân nô;ng thô;n. Tính đến 01/7/2020, toàn tỉnh có 89,67% số xã có hệ thống thoát nước thải chung, tăng mạnh so với 5 năm trước (năm 2016 là 45,10%); tỷ lệ thô;n có hệ thống thoát nước thải sinh hoạt chung là 72,20% (năm 2016 là 31,58%); tỷ lệ xã có tổ chức thu gom rác thải sinh hoạt đạt 76,09% (năm 2016 là 62,75%); tỷ lệ thô;n có tổ chức thu gom rác thải sinh hoạt đạt 63,15% (năm 2016 là 38,07%).
 
Tại thời điểm 01/7/2020, cả tỉnh có 180 xã có nhà văn hóa xã/ hội trường đa năng, chiếm 97,83% tổng số xã trên địa bàn nô;ng thô;n, tăng 27,24% điểm phần trăm so với năm 2016; ngoài ra 1.714 thô;n có nhà văn hóa/nhà sinh hoạt cộng đồng, chiếm 95,12% tổng số thô;n, tăng 8,84 điểm phần trăm so với năm 2016; 1.584 thô;n có khu thể thao thô;n/nơi sinh hoạt văn hóa thể thao, chiếm 87,90% tổng số thô;n. 100% số xã đã được lắp đặt hệ thống loa truyền thanh, phát huy tốt việc tuyên truyền các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, cung cấp kịp thời những thô;ng tin về tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng nô;ng thô;n mới, cũng như các biện pháp để phòng, chống dịch bệnh...
 
Tại thời điểm 01/7/2020, cả tỉnh có 34 xã có ngân hàng, chi nhánh ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân hoạt động, chiếm 18,48% tổng số xã trên địa bàn nô;ng thô;n, hệ thống tín dụng, ngân hàng nô;ng thô;n thực sự là nguồn cung ứng vốn quan trọng hỗ trợ kinh tế - xã hội nô;ng thô;n phát triển. Hoạt động thương mại, dịch vụ hỗ trợ sản xuất và phục vụ dân sinh phát triển đa dạng, số cơ sở chế biến NLTS phát triển cả về số lượng và năng lực, từng bước tạo chuỗi gắn kết sản xuất với chế biến và tiêu thụ các sản phẩm, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập của hộ gia đình ở nô;ng thô;n, phát triển khu vực dịch vụ, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động, phát triển làng nghề ở nô;ng thô;n.
 
Xác định rõ vai trò, vị trí của nô;ng nghiệp, nô;ng dân, nô;ng thô;n đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, nhiều chính sách đã được ban hành góp phần tạo động lực ổn định chính trị - xã hội, xây dựng nô;ng thô;n mới phát triển bền vững. Trong năm 2019, trên địa bàn nô;ng thô;n toàn tỉnh có 699 hộ được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở; gần 60 nghìn hộ được vay vốn ưu đãi thuộc các chương trình, dự án với tổng số vốn vay đạt gần 2.000 tỷ đồng; gần 427 nghìn người được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí (xã miền núi 63,44%, xã vùng cao 28,55% và xã thuộc khu vực đồng bằng - trung du 8,01%).
 
Cô;ng tác giảm nghèo luô;n nhận được sự quan tâm đặc biệt của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở, của các tổ chức, cá nhân, nhà hảo tâm. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh giảm nhanh, đời sống của người dân ngày càng được nâng lên, an sinh xã hội được bảo đảm. Kết quả giảm nghèo giai đoạn 2016- 2020 đạt khá ấn tượng, nếu như năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo chiếm tới 11,72% (khu vực nô;ng thô;n 12,70%) và tỷ lệ hộ cận nghèo chiếm 8,39% (khu vực nô;ng thô;n 9,10%) tổng số hộ, thì năm 2020, tỷ lệ này giảm tương ứng còn 3,14% (khu vực nô;ng thô;n 3,42%) và 3,98% (khu vực nô;ng thô;n 4,27%).
 
Sản xuất nô;ng nghiệp đạt kết quả đáng ghi nhận
 
Thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nô;ng nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững giai đoạn 2016-2020, hàng loạt thể chế, chính sách mới về nô;ng nghiệp, nô;ng dân, nô;ng thô;n được ban hành, đã kịp thời bổ sung nguồn lực cho phát triển các lĩnh vực then chốt, đây chính là đòn bẩy quan trọng tạo ra những chuyển biến cho toàn ngành nô;ng nghiệp nói chung và sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực nô;ng nghiệp, nô;ng dân, nô;ng thô;n nói riêng.
 
Ngành nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản tỉnh Bắc Giang năm 2020 tạo ra trên 22,5 nghìn tỷ đồng giá trị tăng thêm theo giá hiện hành (tăng 1,35 lần so với 5 năm trước). Trong cơ cấu tổng sản phẩm (GRDP) lĩnh vực nô;ng, lâm nghiệp chiếm 18,65% (năm 2016 là 24,95%). Những sản phẩm chủ yếu của tỉnh năm 2020 cơ bản giữ được sự ổn định hoặc tăng mạnh so với 5 năm trước, sản lượng lúa cả năm đạt trên 582 nghìn tấn; sản lượng nhãn, vải đạt gần 184 nghìn tấn; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt trên 168 nghìn tấn; thịt gà hơi xuất chuồng đạt trên 44,6 nghìn tấn…
 
 Một số sản phẩm chủ yếu
 
Đơn vị tính: Tấn
 
  Năm 2016 Năm 2020 So sánh 2020/2016 (%)
Cây hàng năm      
Lúa 628.587 582.855 92,72
Ngô; 42.983 42.754 99,47
Cây lâu năm      
Cam 10.596 46.296 436,92
Bưởi, bòng 10.360 36.640 353,67
Táo 4.385 10.514 239,77
Nhãn 15.825 18.912 119,51
Vải 148.000 165.066 111,53
Sản phẩm chăn nuô;i xuất chuồng      
Lợn 172.512 168.403 97,62
40.658 44.625 109,76

Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng Nô;ng thô;n mới đạt nhiều thành tựu
 
Kết quả thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng Nô;ng thô;n mới trên địa bàn tỉnh đạt được khá toàn diện. Phong trào “Bắc Giang chung sức xây dựng nô;ng thô;n mới” đã thực sự trở thành một phong trào ý nghĩa và được người dân đồng tình hưởng ứng. Đến hết năm 2020, toàn tỉnh đã có 127 xã đạt chuẩn nô;ng thô;n mới (trong đó có 08 xã đạt chuẩn xã nô;ng thô;n mới nâng cao), chiếm 69% số xã và đạt 117,4% kế hoạch; có 03 huyện đạt chuẩn nô;ng thô;n mới và đã có quyết định cô;ng nhận, đạt 100% kế hoạch.
 
Kết cấu hạ tầng tiếp tục được tập trung đầu tư, nâ;ng c???p góp phần thay đổi diện mạo nô;ng thô;n. Phát triển sản xuất có nhiều điểm mới, nổi bật, thu hút được nhiều loại hình kinh tế đầu tư vào vùng sản xuất hàng hóa tập trung, liên kết theo chuỗi giá trị; ứng dụng khoa học cô;ng nghệ, đặc biệt là ứng dụng cô;ng nghệ cao bước đầu đã đem lại hiệu quả; thực hiện cô;ng tác dồn điền, đổi thửa, cánh đồng mẫu đạt kết quả cao góp phần thay đổi cách thức sản xuất... Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) được tập trung thực hiện, các tổ chức, cá nhân dần quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu, truy xuất nguồn gốc để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
 
Đời sống người dân khu vực nô;ng thô;n ngày càng được cải thiện, thu nhập, điều kiện và mức sống được nâng lên, an sinh xã hội được quan tâm;
 
văn hóa, giáo dục, y tế và mô;i trường từng bước nâng cao chất lượng; hệ thống chính trị ở cơ sở được củng cố, an ninh trật tự được giữ vững... đã góp phần phát triển kinh tế - xã hội khu vực nô;ng thô;n.
 
Kinh tế trang trại phát triển
 
Trong những năm qua, kinh tế trang trại đã góp phần đẩy mạnh sản xuất nô;ng nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuô;i; giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động nô;ng thô;n; đưa sản xuất nô;ng nghiệp từ nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa tập trung.
 
Tính đến 01/7/2020 toàn tỉnh có 463 trang trại, bao gồm 377 trang trại chăn nuô;i, chiếm 81,43%; 70 trang trại trồng trọt, chiếm 15,12%; 6 trang trại lâm nghiệp, chiếm 1,30%, 7 trang trại nuô;i thủy sản, chiếm 1,51% và 3 trang trại tổng hợp, chiếm 0,65% trong tổng số trang trại.
 
Tổng diện tích đất các trang trại đang sử dụng trên 1.162 ha (tăng trên 233 ha so với diện tích đất các trang trại sử dụng cách đây 5 năm), bình quân 2,51 ha/trang trại (năm 2016 bình quân 1,41 ha/trang trại). Tổng doanh thu của 463 trang trại đạt trên 2.524 tỷ đồng (bình quân trang trại đạt trên 5.452 triệu đồng), trong đó giá trị sản phẩm và dịch vụ nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản bán ra đạt trên 2.513 tỷ đồng (bình quân trang trại đạt trên 5.428 triệu đồng).
 
Doanh nghiệp và hợp tác xã nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản góp phần quan trọng xây dựng nền nô;ng nghiệp chất lượng cao
 
Tính đến hết năm 2020 toàn tỉnh có 184 hợp tác xã đang hoạt động trong lĩnh vực nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 16,5% so với năm 2016. Thành phần kinh tế hợp tác xã của tỉnh đã có những dấu hiệu tích cực trong quản lý, sử dụng đất đai, lao động, vốn, tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ, kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh trên một số lĩnh vực. Quy mô; lao động bình quân đạt 9,3 người/ hợp tác xã; thu nhập bình quân của lao động thường xuyên đạt trên 1,9 triệu đồng/người/tháng (năm 2016 bình quân đạt 1,2 triệu đồng/người/tháng). Kết quả hoạt động của các hợp tác xã và thu nhập của người lao động tuy có tăng so với năm 2016 nhưng vẫn còn thấp, tăng chậm và khô;ng đều, khô;ng vững chắc, nhất là hợp tác xã dịch vụ thủy nô;ng.
 
Cũng tính đến hết năm 2020, toàn tỉnh có 66 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản (tăng 53,5% so với năm 2016), trong đó có 8 doanh nghiệp nhà nước. Quy mô; lao động bình quân đạt 30 người/ doanh nghiệp; kết quả SXKD của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực NLTS năm 2020 đạt khá hơn so với năm 2016, doanh thu bình quân đạt 31 tỷ đồng/doanh nghiệp (năm 2016 bình quân đạt 5,6 tỷ đồng/doanh nghiệp); qua đó thu nhập của người lao động cũng dần được cải thiện, bình quân đạt gần 5,1 triệu đồng/người/tháng (năm 2016 bình quân đạt 4,3 triệu đồng/người/tháng), mặc dù thu nhập của người lao động đã được cải thiện, nhưng vẫn còn có chênh lệch lớn giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa các vùng và ngành sản xuất.
 
Tóm lại, từ kết quả cuộc điều tra nô;ng thô;n, nô;ng nghiệp giữa kỳ năm 2020 cùng với các báo cáo chính thức các năm của ngành, đã cung cấp một bức tranh tổng quát về thực trạng và xu hướng phát triển nô;ng thô;n, nô;ng nghiệp tỉnh Bắc Giang trong 5 năm qua với những chuyển biến tích cực và khá toàn diện.
 
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động sản xuất NLTS trên địa bàn tỉnh vẫn còn đứng trước một số rủi ro, thách thức, hạn chế: Trong khi năng lực sản xuất nô;ng nghiệp ngày càng tăng nhanh thì thị trường tiêu thụ diễn biến khó lường; cùng với đó, năng suất lao động, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều loại nô;ng sản mặc dù đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn còn thấp. Việc đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất còn chậm; kinh tế hộ nhỏ lẻ vẫn chiếm tỉ trọng cao và còn bộc lộ những hạn chế, làm cản trở quá trình cô;ng nghiệp hóa, hiện đại hóa nô;ng nghiệp; sản xuất quy mô; lớn, theo chuỗi giá trị chưa trở thành chủ đạo. Thu hút nguồn lực xã hội cho nô;ng nghiệp, nô;ng thô;n còn hạn chế; quy mô; đất đai bình quân/hộ còn quá nhỏ, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng hóa lớn, gắn với chế biến và xuất khẩu. Lao động NLTS chưa được đào tạo còn chiếm tỷ trọng cao, thu nhập của lao động trong khu vực quan trọng này còn thấp. Mô;i trường sinh thái nô;ng thô;n chậm được cải thiện và khắc phục...
 
Hạn chế và bất cập tuy còn nhiều, song Bắc Giang tiếp tục thực hiện hiệu quả các giải pháp, khắc phục những khó khăn trong quá trình phát triển và thực hiện cô;ng cuộc tái cơ cấu ngành nô;ng nghiệp hướng tới xây dựng nền nô;ng nghiệp thô;ng minh, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với xây dựng nô;ng thô;n mới phồn vinh và văn minh; cải thiện nhanh hơn đời sống của nô;ng dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo vệ mô;i trường, sinh thái, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng./.
 
Phạm Hoàng Tình
Phó trưởng phòng Thống kê Kinh tế, Cục Thống kê tỉnh Bắc Giang
Trang web giải trí hoa bướm